Viện trưởng Viện KSND tối cao vừa có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa ông Nguyên Vũ và bà Diệp Thảo.
Bà Lê Hoàng Diệp Thảo và ông Đặng Lê Nguyên Vũ tại phiên tòa sơ thẩm - Ảnh: TTO
Theo đó, Viện trưởng VKSND tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm về phần hôn nhân và chia tài sản chung, giao hồ sơ cho TAND TP.HCM xét xử lại.
Đồng thời, tạm đình chỉ thi hành bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm nêu trên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Nhiều vi phạm tố tụng
Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng bản án sơ thẩm của TAND TP.HCM và bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại TP.HCM đã có nhiều vi phạm tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự trong vụ án.
Cụ thể, về quan hệ hôn nhân, bà Thảo và ông Vũ là vợ chồng, đăng ký kết hôn năm 1998. Do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên bà Thảo xin ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Thảo lúc xin ly hôn lúc xin đoàn tụ, ông Vũ lúc đầu xin đoàn tụ, sau đó xin ly hôn. Tòa sơ thẩm tuyên công nhận ông Vũ và bà Thảo thuận tình ly hôn là đúng quy định.
Sau đó, bà Thảo kháng cáo, muốn được đoàn tụ với ông Vũ nhưng ông Vũ không đồng ý. Do đó, bà Thảo và ông Vũ không còn là thuận tình ly hôn. Tòa án cấp phúc thẩm vẫn công nhận thuận tình ly hôn là không đúng.
Bản kháng nghị cũng nêu, nếu Tòa án cấp phúc thẩm xác định có căn cứ cho ly hôn thì sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận kháng cáo của bà Thảo về nội dung quan hệ hôn nhân, chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ về quan hệ hôn nhân để giải quyết cho ông Vũ được ly hôn với bà Thào mới đúng.
Về định giá, kháng nghị cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành định giá, mà sử dụng kết quả thẩm định giá và giá các bất động sản do các bên thống nhất để giải quyết vụ án là không bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự.
Bên cạnh đó, nhiều báo cáo tài chính năm của các công ty không được kiểm toán song cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn căn cứ vào kết quả thẩm định giá các công ty trên của Công ty TNHH thẩm định giá Sài Gòn để giải quyết vụ án là không đúng.
Ngoài ra, theo quy định thì giá trị tài sản chung của vợ, chồng, tài sản riêng của vợ chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm vụ việc. Tuy nhiên tại các chứng thư thẩm định giá đều nêu rõ cơ sở thẩm định giá được xác định theo giá trị phi thị trường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn sử dụng kết quả thẩm định giá trên làm cơ sở để chia tài sản chung của bà Thảo và ông Vũ là cũng là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên.
Hơn nữa, Công ty TNHH thẩm định giá Sài Gòn chưa thẩm định giá trị quyền sở hữu trí tuệ (giá trị thương hiệu) của các công ty trên là thiếu sót, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn sử dụng kết quả thẩm định giá trên để làm cơ sở để chia tài sản chung của bà Thảo và ông Vũ là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Thảo khi bà Thảo không được nhận hiện vật.
Ngoài ra, kháng nghị giám đốc thẩm còn cho rằng bản án phúc thẩm đã vi phạm tố tụng nghiêm trọng trong việc không ra quyết định đình chỉ đối với các yêu cầu phản tố mà ông Vũ đã rút, sử dụng các chứng thư và báo cáo kết quả thẩm định giá hết hiệu lực để chia tài sản cho các bên, đưa thiếu người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là những người đang quản lý các bất động sản này vào tham gia tố tụng.
Cổ phần các công ty là hiện vật, chia được
Theo kháng nghị, về bất động sản, Tòa án phân chia số 13 bất động sản trên theo sự thỏa thuận giữa ông Vũ và bà Thảo là có căn cứ. Tuy nhiên, việc tuyên giao cho bà Thảo quản lý và sử dụng giá trị quyền sử dụng đất tại 7 bất động sản là không đúng mà phải giao cho bà Thảo quyền sở hữu, quản lý, sử dụng mới đúng theo quy định của pháp luật.
Bởi dù bà Thảo sang Úc kinh doanh và được chính phủ Úc cấp thị thực định cư thì bà vẫn là người Việt Nam. Do đó, bà Thảo không thuộc diện điều chỉnh theo quy định tại Điều 7, Điều 8 Luật Nhà ở và Điều 186 Luật đất đai nên bà Thảo vẫn có quyền quản lý, sử dụng, sở hữu đối với 7 bất động sản nêu trên.
Về cách chia tài sản chung, theo kháng nghị thì cổ phần trong các công ty là tài sản chia được bằng hiện vật. Bà Thảo luôn có yêu cầu được nhận bằng hiện vật. Tòa án đã không xem xét đánh giá toàn diện về số cổ phần, phần vốn góp và nhu cầu sử dụng của đương sự mà chia toàn bộ cổ phần, phần vốn góp cho ông Vũ, giao cho bà Thảo bằng giá trị là không đúng, chưa đảm bảo quyển lợi của bà Thảo về quyền được kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, sau khi kết hôn với bà Thảo, việc kinh doanh của ông Vũ bắt đầu có sự phát triển và hình thành tập đoàn Trung Nguyên hiện nay. Bà Thảo đã nhiều năm tham gia điều hành hoạt động của Tập đoàn Trung Nguyên, nhất là thời gian ông Vũ không trực tiếp điều hành hoạt động của Tập đoàn.
Việc Tòa án hai cấp xem xét việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng là cổ phần trong tập đoàn Trung Nguyên chia cho ông Vũ phần nhiều hơn, chia cho bà Thảo ít hơn ông Vũ 20% giá trị cổ phần trong Tập đoàn Trung Nguyên là không bảo đảm quyền lợi của bà Thảo.
Về tài sản là tiền, vàng gửi ngân hàng, đại diện của ông Vũ xác định tổng số tiền yêu cầu phản tố là 1.764 tỉ đồng. Tuy nhiên, Tòa án không yêu cầu bị đơn cung cấp căn cứ để tính ra số tiền trên mà đã công nhận số tiền do bị đơn khai tại phiên tòa là chưa có căn cứ vững chắc.
Theo yêu cầu của ông Vũ, Tòa án đã có công văn yêu cầu Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam cung cấp số dư của trong 23 tài khoản mang tên bà Thảo tại ngân hàng này. Theo đó, trong 23 tài khoản ở ngân hàng trên thì có 6 tài khoản mang tên một người khác nhưng Tòa án lại xác định số tiền trong 6 tài khoản này là tài sản chung của vợ chồng ông Vũ, bà Thảo là chưa có cơ sở.
Ngoài ra, Tòa án hai cấp giao cho bà Thảo được sở hữu khối tài sản tiền, vàng, các loại ngoại tệ hiện nay nằm trong ngân hàng quy đổi thành số tiền là 1.764 tỉ đồng tại các ngân hàng trong khi kết quả xác minh tại thời điểm xét xử số dư chi còn 1 tỉ đồng là chưa chính xác, không đúng với số tiền thực có gửi tại ngân hàng, gây khó khăn cho việc thi hành án.
Ngày 5-12, TAND cấp cao tại TP.HCM xét xử phúc thẩm đã tuyên công nhận ông Vũ và bà Thảo thuận tình ly hôn, công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, giao cho bà Thảo nuôi các con chung, ông Vũ cấp dưỡng nuôi các con chung 10 tỉ đồng/năm từ năm 2013 đến khi các con học xong đại học. Về tài sản là bất động sản, HĐXX tuyên chia đôi, ông Vũ được nhận 6 bất động sản, bà Thảo nhận 7 bất động sản và "thối" lại cho ông Vũ tiền chênh lệch. Về tài sản là vàng, ngoại tệ, tiền Việt trị giá 2.000 tỉ đồng trong các ngân hàng, HĐXX tuyên chia 60-40, trong đó ông Vũ được hưởng 60%. Về tài sản là cổ phần tại các công ty, bản án chia theo tỉ lệ 60-40, trong đó ông Vũ được hưởng 60%, bà Thảo 40%. Theo bản án, ông Vũ được sở hữu toàn bộ cổ phần của các công ty và "thối" tiền lại cho bà Thảo. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Vũ về việc không tranh chấp tại Công ty Trung Nguyên Inernational Singapore. Ngoài ra, tòa phúc thẩm hủy bỏ phần quyết định của bản án sơ thẩm về việc đình chỉ tất cả các tranh chấp của các đương sự liên quan đến Tập đoàn Trung Nguyên. |
TUYẾT MAI
Nguồn: Thư viện pháp luật