Cần quy định rõ cơ chế phân chia, xử lý tài sản chung trong thi hành án

Cần quy định rõ cơ chế phân chia, xử lý tài sản chung trong thi hành án

(PLVN) - Việc Chấp hành viên tự tiến hành phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình theo điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP khi chưa có quy định rõ ràng về cơ chế phân chia và quyền hạn đã gây khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án và dễ làm phát sinh các khiếu nại, tố cáo.

Cần quy định rõ cơ chế phân chia, xử lý tài sản chung trong thi hành án

Ảnh minh họa

Theo khoản 1 Điều 74 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. 

Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. 

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án. 

Như vậy, nếu đương sự không thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, theo điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015, đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. 

Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết. 

Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ… Theo đó, Chấp hành viên sẽ tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình trong trường hợp đương sự không thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quy định này của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP khá mâu thuẫn với nguyên tắc chung tại Điều 74 Luật THADS nêu trên. Đồng thời, việc quy định Chấp hành viên tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình theo điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP nêu trên gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện vì chưa quy định rõ Chấp hành viên phân chia tài sản của vợ chồng, hộ gia đình theo cơ chế nào. Chấp hành viên có được đầy đủ quyền hạn của Thẩm phán Tòa án để áp dụng pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân gia đình để xác định phần sở hữu trong khối tài sản chung hay không. Việc Chấp hành viên tự phân chia tài sản chung trong khi chưa có cơ chế bảo vệ, thực hiện, gây khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án và làm phát sinh khiếu nại tố cáo, khó khăn trong giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chấp hành viên. 

Do đó, cần nghiên cứu, xem xét bãi bỏ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để thực hiện thống nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS về phân chia, xử lý tài sản chung.

M.Khuê

Nguồn: baophapluat.vn

Tin liên quan

Thời gian làm việc

  • Buổi sáng từ 7h30 đến 11h30
  • Buổi chiều từ 13h00 đến 17h00

Hỗ trợ trực tuyến

    

    Văn Phòng Công Chứng Tân Phú

    info@congchungtanphu.vn

    0968201919

Right